Bia Tiến sĩ ở cổng chùa Viên Quang

Những bức ảnh đặt tại chùa Viên Quang, huyện Nam Đàn. Có một tấm bia, hình như là bia Tiến sĩ - ghi danh những tiến sĩ từ thời Lê đến Nguyễn tại vùng xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn.
Tấm bia có lẽ bị bom đánh, nên bị nứt đôi. Trong chùa còn có khánh đá rất lâu đời nhưng cũng đã bị nứt.


Một số thông tin về các tiến sĩ trên bia có:
- Võ Duy Dương, sinh năm 1658, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Lê Chính Hòa ất sửu (mùa thu). Lê Duy Dương người xã Thanh Tuyền, huyện Nam Đường nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn. Làm quan đến chức Đô ngự sử, nhưng vì ngay thẳng can gián vua nên bị truất làm tư huấn. Năm 36 tuổi lấy cớ đau yếu, ông xin từ quan về quê sinh sống, mở trường dạy học, mất năm 38 tuổi.
- Bùi Hữu Nhậm, (1676-1740), người xã Thanh Tuyền, huyện Nam Đường, nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn. Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Chính Hòa 21 (Lê Hy Tông), làm quan đến cấp sự trung. Khi làm quan nổi tiếng cương trực, khi trí sĩ về quê dạy học.
- Bùi Hữu Tụy (1867-?), người xã Thanh Thủy, huyện Nam Đàn, nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, đệ tam giáp đồng tiến sĩ.
Và nhiều tên danh nhân đỗ đạt khác.
Như vậy có thể thấy đây là bia nêu danh các vị đỗ đạt của xã Nam Thanh, Nam Đàn.

Trong chùa Viên Quang còn có mộ của Tiến sĩ Võ Duy Dương và Bùi Hữu Nhậm, bia hai tướng quân do Nguyễn Thức Tự soạn. Nội dung bia như sau:


Phiên âm:    

Vũ, Bùi nhị vị tướng công bi

Ngô xã Nghĩa Trai tướng công, tự Duy Dương, tính Vũ, thế khoa hoạn. Công, Chính Hòa Tân Dậu khoa Giải nguyên, Ất Sửu khoa Tiến sĩ. Ngô tổng khoa giáp công kỳ hao thỉ dã. Sĩ chí Thanh Hoa đạo Ngự sử. Tốt niên tam thập lục. Kim phụng phong Phúc thần. Hương cống Duy Thám, Sinh đồ Duy Bá công lĩnh dẫn dã.

Bùi tướng công, tự Hữu Nhậm, Giải nguyên Bùi Hữu Chí chi tử, Hương cống Bùi Trần Hiến chi huynh dã. Chính Hòa Canh Thìn khoa Tiến sĩ, lịch sĩ Sơn nam Giám sát ngự sử, Thanh Hoa Đốc đồng thăng Hiến sát sứ. Phụng sai đốc trấn. Cao tốt vu quan, tặng Tham chính. Kim tôn tộc phồn diễn. Tú tài Bùi Hữu Văn , Bùi Hữu Tụy giai kì nội tôn dã.

Duyệt phổ kỷ nhị bách niên vu tư hỹ. Kim hạ ngô xã thân sắc kì hào bốc trạch phụng song cải vũ Trù Sơn chi bắc, giang tân nam thiết, dĩ phong thạch thỉ nhi chúc nhi, nhĩ phất phong dã. Viên bái, bình nhi cẩn chí viết: Bất mẩn giả tinh, bất hủ giả danh, nhị công chi phù một tồn tử sinh trù sơn giai thành, thần quan huỳnh huỳnh kỳ cảnh nhiên vu thương minh giả. Khải tại mộ chi minh bất minh.

Thành Thái tứ niên cửu nguyệt nhị thập nhật
Đông Khê Sơn phòng sứ Nguyễn Thức Tự cung soạn
Mậu Tý khoa Cử nhân thăng Biên tu lĩnh Huấn đạo Bùi Danh Hòa phụng cúng.
Bản xã văn thân hòa lí đồng bái chí.


Dịch nghĩa: 

Văn bia hai tướng công họ Vũ và họ Bùi

Nghĩa Trai tướng công của xã ta tự Duy Dương, họ Vũ, dong họ đời đời khoa hoạn. Ông đậu Giải nguyên năm Chính Hòa Tân Dậu (1681), Tiến sĩ khoa Ất Sửu (1685). Khoa giáp của tổng ta ông nổi tiếng đầu tiên, như mũi tên, tên chưa vút tới đã nghe tiếng mũi tên bay. Làm quan tơi chức Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa. Ông qua đời năm 36 tuổi. Nay được phong Phúc thần. Hương cống Vũ Duy Thám, sinh đồ Vũ Duy Bá là con cháu của ông.

Bùi tướng công, tự Hữu Nhậm, là con của Giải nguyên Bùi Hữu Chi; Anh của Hương cống Bùi Trần Hiến. Tiến sĩ khoa Chính Hòa Canh Thìn (1700). Làm quan đến Giám sát ngự sử Sơn Nam, Đốc đồng Thanh Hoa thăng Hiến sát sứ, phụng Đốc trấn. Tạ thế khi đương quan, tặng Tham chính. Nay dòng tộc của ông phồn thịnh. Tú tài Bùi Hữu Văn, Bùi Hữu Tụy đều là nội tôn (Bùi Hữu Tụy (1867-?), cử nhân khoa kỷ Dậu (1909), Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1910), làm quan: Thừa chỉ, Lang trung Bộ Lại).

Trải đã 200 năm, mùa hè năm nay thân hào của xã bàn định chọn nơi song cải (dời mộ của hai vị) về phía đông bắc núi Chùa (chùa Viên Quang), phía đông nam bậc đá bến Rào (Rào băng, phát nguyên từ dãy núi Đại Huệ, nay đã được ngăn thành Đập Rào Bâng), lấy đá ong xếp thành đàn mộ để khỏi mất. Nay bèn chập tay cúi lạy, xin ghi tạc rằng: Tinh thần không đổ tên tuổi không nát. Hai ông như hoa phù dung: mất còn, chết sống đều là phúc thần ở núi Chùa, là vị thần lấp lánh ánh sao, mênh mông như biển cả. Há chi ở mộ có bia hay không có bia.

Ngày 20 tháng 9 năm Thành Thái thứ tư (1892)
Đông Khê Sơn phòng Nguyễn Thức Tự (1841-1923) kính cẩn soạn bài này
Mậu Tý khoa(1888) Cử nhân thăng Biên tu lĩnh Huấn đạo Bùi Danh Hòa cúng bia
Bản xã văn thân hào lý đồng bái ghi tạc.







Nhận xét